CSau khi Quân Đức Quốc Xã xâm chiếm Liên Xô vào tháng 6 năm 1941, Joseph Stalin khẩn cầu các đồng minh ở phương Tây thành lập một mặt trận thứ hai tấn công ở Tây Âu nhằm phân tán lực lượng quân của Hitler. Các nhà chiến lược Tây phương nghiên cứu và nhiều lần thảo luận, quân đồng minh dự định tấn công vào sườn phía Tây của Âu Châu tháng 5 năm 1944. 

Trước đó, Quân Đồng minh Tây phương đã tổ chức các cuộc tấn công tại Địa Trung Hải, nơi quân đội Anh đang đóng quân. Đến giữa năm 1943, chiến dịch ở Bắc Phi đã giành chiến thắng. Quân Đồng minh sau đó đã phát động cuộc tấn công Sicily vào tháng 7 năm 1943 và sau đó xâm chiếm lục địa Ý vào tháng 9 cùng năm. Trong lúc đó, các lực lượng Liên Xô tấn công và đã giành được chiến thắng tại Stalingrad. Tuy nhiên, quân Đức Quốc Xã vẫn còn rất mạnh tại Âu Châu. Quyết định thực hiện một cuộc tiến quân trong năm tới được đưa ra tại Hội nghị Trident ở Washington vào tháng 5 năm 1943.  Tại Hội nghị Tehran vào tháng 11 năm 1943, Roosevelt và Churchill đã hứa với Stalin rằng họ sẽ mở mặt trận thứ hai đã bị trì hoãn từ lâu vào tháng 5 năm 1944. 

Bốn địa điểm đã được xem xét cho cuộc đổ bộ này là : Brittany , Bán đảo Cotentin , Normandy và Pas-de-Calais . Đồng minh cuối cùng quyết định đổ bộ vào Normandy, một bãi biển của Pháp, dự định tiến hành vào ngày 1 tháng 5 năm 1944, nhưng sau phải trì hoãn nhiều lần do thời tiết.

Kế hoạch được bắt đầu thảo luận vào năm 1943. Trong những tháng trước cuộc đổ quân, quân Đồng minh đã tiến hành đánh lừa quân sự có tên mã là Chiến dịch Vệ sĩ (Operation Bodyguard), nhằm đánh lạc hướng quân Đức về ngày và địa điểm của cuộc đổ bộ. Thời tiết trong D-Day không được lý tưởng và hoạt động phải bị trì hoãn nhiều lần, có nghĩa là chậm trễ ít nhất hai tuần vì các nhà hoạch định chiến dịch đòi hỏi tình trạng của mặt trăng, thủy triều và thời gian, chỉ có vài ngày mỗi tháng được coi là phù hợp. Nhà độc tài Adolf Hitler đã đặt Nguyên soái Erwin Rommel chỉ huy lực lượng Đức và cho đặt các công sự dọc theo “Bức tường Đại Tây Dương” trong dự đoán về một cuộc tấn công của quân Đồng minh.

Cuộc đổ bộ vào bãi biển Normandy  được dự trù vào ngày thứ ba, ngày 6 tháng 6 năm 1944, được gọi là Chiến dịch Overlord trong Thế chiến II, có tên mã là Chiến dịch Sao Hải Vương (Neptune) và thường được gọi là D-Day. Đây  là cuộc tấn công trên biển lớn nhất trong lịch sử chiến tranh. Chiến dịch bắt đầu giải phóng nước Pháp khỏi sự chiếm đóng của quân Đức (và sau đó là Tây Âu), và đặt nền móng cho chiến thắng của phe Đồng minh trên Mặt trận phía Tây, góp phần chiến thắng cuối cùng trước lực lượng Đức Quốc Xã..

Sáng sớm ngày 6/6/1944, cuộc đổ bộ được khởi đầu bởi các oanh tạc không quân và hải quân và nhảy dù đổ bộ của 24.000 lính Mỹ , Anh, Canada ngay sau nửa đêm. Bộ binh và thiết giáp tiến vào bờ biển Pháp lúc 06:30. Mục tiêu án ngữ kéo dài 50 dặm (80 km) của bờ biển Normandy được chia thành năm khu vực được đặt tên là Utah , Omaha , Gold , Juno và Sword. Những cơn gió mạnh đã thổi tàu đổ bộ về hướng đông các vị trí dự định, đặc biệt là tại Utah và Omaha. Những người lính dù hạ cánh dưới hỏa lực nặng nề từ các ụ súng trên bờ hướng ra bãi biển, bờ biển được phủ đầy mìn và chướng ngại vật như cọc gỗ, giá ba chân kim loại và dây thép gai, khiến công việc “làm sạch” bãi của các toán tiền tiêu trở nên khó khăn và nguy hiểm. Thương vong nặng nhất tại Omaha với những vách đá cao. Tại Gold, Juno và Sword, một số thị trấn kiên cố đã bị đánh sập trong giao tranh từ nhà này qua nhà khác, hai ụ súng lớn tại Gold đã bị vô hiệu hóa bởi đoàn chiến xa.

Đồng minh đã không đạt được bất kỳ mục tiêu lớn nào ngay trong ngày đầu tiên. Carentan , St. Lô và Bayeux vẫn nằm trong tay quân Đức và thành phố Caen, một mục tiêu chính, đã không chiếm được mãi cho đến ngày 21 tháng 7. Chỉ có hai trong số các bãi biển (Juno và Gold) được nối liền vào ngày đầu tiên và tất cả năm bãi biển khác chỉ được kết nối vào ngày 12 tháng 6; tuy nhiên, chiến dịch đã đạt được đầu cầu quan trọng nhờ đó quân Đồng minh dần dần mở rộng vùng ảnh hưởng trong những tháng tới. Thương vong của quân Đức trong D-Day ước tính khoảng 4.000 đến 9.000 người. Thương vong của đồng minh ít nhất là 10.000, với 4.414 người được xác nhận đã chết.

Chiến thắng tại Tây Âu đã là nền móng cho các chiến dịch đánh vào sườn quân đội Đức ở Âu Châu, nhờ vậy Nga sô mới có thể chống cự Đức ở Liên Xô.

Thất bại của Đức tại Normandy, Pháp, đã làm quân Đức suy yếu và mất tinh thần. Nếu không có Normandy, có nghĩa là sự khởi đầu tham gia trực tiếp của quân đội Mỹ vào chiến trận, với lực lượng không quân hùng hậu, chắc chắn Âu Châu sẽ khó mà cưỡng lại được quân đội hùng mạng của Hitler, chưa kể nhà lãnh đạo độc tài khát máu này đang chế tạo thành công vũ khí mới, có thể là vũ khí nguyên tử/

Chào mừng Ngày D Day, ngày mà thế giới đã thoát cơn đại họa.

Theo Wikipedia và Imperial War Museum

https://www.iwm.org.uk/about
Print Friendly, PDF & Email